Cá lăng nha là loài thủy sản nước ngọt, có giá trị kinh tế cao, phát triển tốt ở trong môi trường ao hồ, lồng bè. Nhận thấy đây là đối tượng nuôi mới phù hợp với điều kiện khí hậu nước ta, nên nhiều người dân đã nuôi loài cá này. Hiện nay, có nhiều phương pháp nuôi cá lăng nha đem lại hiệu quả, năng suất cao. Trong đó phổ biến là nuôi cá lăng nha trong ao đất và trong lồng bè. Nuôi cá lăng nha trong lồng bè không khó, bài viết dưới đây reservenz.com sẽ hướng dẫn cho bà con tất tần tất về cách chọn vị trí đặt lồng, thiết kế lồng, chăm sóc và quản lý cá lăng nha. Cùng theo dõi bài viết để áp dụng ngay phương pháp chăn nuôi này nhé!
Mục Lục
Đặc điểm cá lăng nha
Cá lăng nha là loài cá dễ nuôi, nhanh lớn, có thịt thơm ngon, không có xương dăm và giá trị kinh tế cao. Cá lăng nha có thịt trắng, không có xương dăm, mùi thơm, loài cá này có tên khoa học Mystus Wyckiioides, là loài cá nước ngọt sống ở nhiều nơi ở Châu Á, chúng sống nhiều ở cùng sông mê kông, cá lăng nha được biết đến nhiều ở khu vực đồng bằng số cửu long.
Cá lăng nha trước đây là loài cá sống nhiều ở ngoài tự nhiên. Ngày nay do nhu cầu của người dân tăng cao nên việc nuôi cá lăng nha trở nên phổ biến hơn. Cá lăng nha được nuôi theo những mô hình kinh tế khác nhau, đạt hiệu quả cao, hiện nay cá lăng nha được áp dụng hình thức nuôi bán thâm canh trong ao hoặc trong bè để cá lớn nhanh hơn.
Cách làm lồng nuôi cá lăng nha
Nuôi cá lăng nha trong lồng đạt năng suất cao hơn. Vì mức độ đầu tư cao, nuôi trong lồng dễ quản lí, kiểm soát được dịch bệnh,… hơn nuôi trong ao đất. Nuôi trong lồng thì thức ăn chủ yếu là thức ăn tươi sống bổ sung đủ chất cho cá lăng. Tuy chi phí cao hơn khi nuôi trong ao đất nhưng lại đạt năng suất cao như mong đợi.
Tuỳ theo khả năng kinh tế của mỗi người mà có thể làm lồng có kích thước to hoặc nhỏ khác nhau, thể tích tối thiểu của bè là 10m3, độ sâu mực nước trong lồng phải đạt 2m. Lồng cần có mái che để che mát cho bè. Dùng bó tre hoặc thùng phi làm phao để giảm độ chao lắc của bè, nên đặt lồng ở nơi có nước chảy vừa phải, không quá mạnh. Phía dưới của bè cần đổ một lớp đất sét mềm khoảng 10-15 cm. Để cho cá chui rúc khi động, đất sét được khử trùng bằng vôi và muối. Liều lượng là 10kg đất trộn với 100-150gr muối và 50-100gr vôi bột.
Lựa chọn cá giống
Cá giống khỏe mạnh, không dị hình, không xây xát, không bị mất nhớt, có đuôi và râu không bị bạc màu, kích cỡ đồng đều. Cá bơi lội linh hoạt, nhanh nhẹn, tập trung theo đàn. Cần biết rõ nguồn cá giống. Nên mua cá giống ở những nơi bán có uy tín. Cá giống tốt là cá không mất nhớt, đuôi và râu không bạc màu, đồng cỡ, cá bơi lội khỏe, cỡ cá thả khoảng 5-7cm, trọng lượng 30 con/kg.
Có thể thả giống bất kỳ thời điểm nào trong năm. Tốt nhất nên thả giống vào tháng 2-3 dương lịch. Không thả giống vào thời điểm bất lợi như mưa gió, áp thấp nhiệt đới,… Thả giống vào lúc trời mát, tốt nhất là vào lúc sáng sớm. Trước khi thả nên ngâm bao cá trong nước khoảng 15 phút. Sau đó thả cá từ từ vào lồng nuôi.
Thức ăn và chăm sóc cá
Cần làm sàn ăn cho cá, cách làm này sẽ quản lý được lượng thức ăn và nắm được sức tăng trọng của cá. Liều lượng mồi cho ăn hằng ngày bằng 5-7% trọng lượng cơ thể cá. Thức ăn của cá là cá tạp xay nhỏ hoặc cắt khúc vừa miệng cho cá ăn. Thức ăn tự chế gồm 50% cám + 50% cá tạp xay nhỏ, ép thành viên cho cá ăn. Cần cho cá ăn thêm thức ăn công nghiệp để bổ sung hàm lượng đạm. Một ngày cho cá ăn 3 lần vào lúc sáng, chiều và tối. Lượng thức ăn buổi tối khoảng 40-50% tổng lượng thức ăn trong ngày.
Trong quá trình cho ăn cần quan sát lượng mồi thừa thiếu trong sàn mà điều chỉnh tăng hay giảm lượng thức ăn cho mỗi ngày. Cần đưa ra khỏi bè cá thức ăn còn dư để tránh ô nhiễm môi trường nuôi cá. Đầu mùa dịch bệnh, khoảng tháng 10, 11 cần thêm vào thức ăn vitamin C với lượng 5mg/100 kg cá.
Theo dõi cá để phòng và trị bệnh
Thường xuyên kiểm tra, gia cố bè thật chắc trước và sau khi thả cá. Dùng BKS hoặc Sanmolt F phun vào bè để diệt mầm bệnh. Đặt bè nơi ít sóng gió, tốc độ nước chảy nhẹ, thuận lợi cho việc vận chuyển cá và thức ăn. Trước khi thả cá cần tắm cho cá bằng dung dịch muối ăn 2-3%o. Thường xuyên theo dõi hoạt động ăn của cá. Nhất là lúc nước đứng để có biện pháp xử lý kịp thời. Phòng bệnh bằng cách treo các túi vôi ở đầu bè, khoảng 15-20 ngày phun khử trùng bè một lần bằng BKS (phun trực tiếp xuống bè).