Cá trắm cỏ là loài thuộc họ cá chép, thịt thơm ngon, ít xương dăm, cá thương phẩm dao động từ bốn đến gần chục kg/con với mức giá dao động trong khoảng từ 75-80 ngàn/kg. Với trọng lượng và giá trị kinh tế cao như vậy nên loài cá này hiện đang là sự lựa chọn của nhiều nhà nuôi trồng thủy sản. Cách nuôi cá trắm cỏ cũng rất đơn giản nhưng để nuôi cá trắm cỏ mau lớn và đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất thì đòi hỏi phải có kỹ thuật chăn nuôi tốt. Dưới đây là phương pháp không thể bỏ qua nếu bà con có kế hoạch chăn nuôi cá trắm cỏ.
Mục Lục
Vệ sinh ao nuôi cá
Tát hoặc tháo cạn, dọn sạch cỏ, tu sửa bờ, đăng cống, vét bùn nếu lượng bùn quá nhiều. Bón vôi khắp đáy ao để diệt cá tạp và các mầm bệnh. Bằng cách rải đều từ 7 đến 10 kg vôi bột cho 100 mét vuông đáy ao. Sau tẩy vôi 3 ngày, bón lót bằng cách rải đều khắp ao từ 20-30 kg phân chuồng và 50kg lá xanh cho 100 mét vuông (loại lá cây thân mềm để làm phân xanh). Lá xanh được băm nhỏ rải đều khắp đáy ao, vùi vào bùn hoặc bó thành các bó nhỏ từ 5 đến 7kg dìm ở góc ao.
Lấy nước vào ao ngập từ 0,3-0,4 mét, ngâm 5 đến 7 ngày, vớt hết bã xác phân xanh, lấy nước tiếp vào ao đạt độ sâu 1 mét. Cần phải lọc nước vào ao bằng đăng hoặc lưới đề phòng cá dữ, cá tạp xâm nhập. Cá trắm cỏ sống ở tầng nước giữa, thức ăn chính là cây xanh như cỏ thân mềm, rau, bèo dâu, bèo tấm, lá chuối, lá sắn, cây chuối non băm nhỏ, rong, thân cây ngô non, cá trắm cỏ cũng ăn các loại bột ngô, khoai, sắn, cám gạo. Cá nuôi sau 10-12 tháng đạt trọng lượng từ 0,8-1,5 kg/con (trung bình 1 kg mỗi con).
Thời điểm thả cá trắm giống
Yêu cầu cá giống phải khỏe mạnh, không còi cọc. Cá trắm cỏ lớn rất nhanh nên nuôi được nửa năm có thể tỉa bớt và hết năm là thu hoạch được rồi. Mật độ thả cá là khoảng 30-35 con/m3 nước. Đối với cá trắm thì không thả trực tiếp xuống ao mà cho túi đựng cá giống xuống nước để cân bằng lại nhiệt độ. Sau 15 phút thì mở miệng túi cho cá tự bơi ra ngoài.
Thời gian thả là vào sáng sớm hay chiều tối vào những ngày trời quang. Có 2 thời kỳ thả cá giống là vụ xuân từ tháng 2 đến tháng 3 và vụ thu từ tháng 8 đến tháng 9. Cần thả cá giống lớn, khoẻ mạnh, không sây xát, không có bệnh. Mật độ thả từ 1-2 con cho 1 mét vuông. Cỡ cá thả 8-10cm.
>>> Tham khảo thêm chuyên mục phương pháp nuôi thuỷ sản
Theo dõi và chăm sóc cá
Cá trắm cỏ là loài cá dễ nuôi, thức ăn của nó đa dạng, dễ kiếm. Chủ yếu ăn cỏ, rong, bèo trong nước hay các loại lá ngô, lá sắn,… Hoặc các sinh vật nhỏ, phù du sống trong nước. Thức ăn xanh gồm các loại cỏ, rong, bèo tấm, bèo dâu, lá chuối, lá sắn. Nên cho cá ăn đủ hàng ngày. Sau khi cá ăn cần vớt bỏ các cọng cỏ, cây, lá già cá không ăn được.
Cho cá ăn thêm cám gạo, cám ngô,… Cứ 100 con cho ăn từ 2 đến 3kg thức ăn xanh. Sau tăng dần theo sự lớn lên của cá bằng cách theo dõi hằng ngày. Muốn tăng trọng 1kg thịt cá trắm cỏ cần từ 30-40kg thức ăn xanh như rong, cỏ, bèo,… Với cỏ tươi cho ăn 30-40% trọng lượng thân, với rong, bèo cho ăn 70% trọng lượng thân.
Trong quá trình nuôi cá, bà con phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra lại bờ, ao mực nước và màu nước trong ao để kịp thời xử lý nếu có sự cố xảy ra. Theo dõi thường xuyên bờ ao, cống thoát nước, xem mực nước ao vào các buổi sáng. Vào sáng sớm theo dõi xem cá có bị nổi đầu vì ngạt thở không. Cá có nổi đầu kéo dài không. Nếu có, tạm dừng cho ăn và thêm nước vào ao. Khi thấy cá bị bệnh hoặc chết rải rác cần hỏi cán bộ kỹ thuật hoặc khuyến ngư để biết cách xử lý.
Thời điểm và cách thu hoạch
Sau 5 đến 6 tháng nuôi có thể đánh tỉa số cá lớn để ăn. Hoặc bán và thả bù cá giống để tăng năng suất nuôi. Phải ghi lại số lượng cá đã thu và thả lại sau mỗi lần đánh tỉa (ghi cả số con và số kg cá). Cuối năm thu toàn bộ cá (có thể chọn những cá nhỏ giữ lại làm giống cho vụ nuôi sau).
Trước khi thu hoạch 1 ngày phải ngừng cho cá ăn. Thời điểm thu hoạch nên vào sáng sớm hoặc chiều mát. Nếu thu toàn bộ cá thì trước khi thu nên tháo bớt nước còn 0,5-0,6m, sau đã kéo 2-3 mẻ thu gần hết cá rồi tháo cạn nước thu toàn bộ cá trong ao. Sau khi thu hoạch toàn bộ phải ghi lại sản lượng cá thu được (bao gồm cả cá đánh tỉa và cá thu cuối năm), nhằm sơ bộ hạch toán trong quá trình nuôi để có cơ sở cho đầu tư tiếp ở vụ nuôi sau.