Trước diễn biến phức tạp của thời tiết ở trong thời điểm giao mùa như là đang nắng nóng chuyển sang mưa rào hay là nhiệt độ đang cao chuyển xuống thấp là một điều kiện cực kỳ thuận lợi cho những mầm bệnh phát triển trên cá nuôi. Trong đó đặc biệt là đối với bệnh nấm thủy mi đã gây ra những thiệt hại không nhỏ cho nghề nuôi cá nước ngọt trong nước. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu đến những hộ nuôi trồng thủy sản bệnh nấm thủy mi và cách phòng trị.
Bệnh nấm thủy mi hay còn được gọi là bệnh mốc trắng ở cá xảy ra ở hầu hết với những loại cá nuôi nước ngọt vào giai đoạn giao mùa, nhất là những loại cá truyền thống. Trong đó thì bệnh thường gặp trong giai đoạn từ tháng 8 cho đến tháng 12 hàng năm. Bệnh sẽ phát triển nhanh trong những ao nuôi nước tù, hàm lượng chất bẩn và chất hữu cơ cao.
Mục Lục
Tác nhân gây bệnh
Bệnh do một số loài nấm thuộc các giống: Achlya, Saprolegnia, Leptolegnia… gây ra. Chúng có dạng hình sợi, thuộc nhóm nấm bậc thấp, cấu tạo sợi nấm đa bào nhưng không có các vách ngăn. Nấm sinh sản bằng nhiều hình thức khác nhau như Sinh sản dinh dưỡng bào tử, sinh sản vô tính bằng túi bào tử kín,sinh sản hữu tính bằng tiếp hợp. Bào tử nấm có tiên mao, có thể vận động trong nước nên khả năng lây lan bệnh rất cao.
Dấu hiệu bệnh nấm thủy mi ở trên cá
Trên da cá lúc đầu có các vùng trắng xám, giống như các sợi nấm nhỏ mềm. Sau đó nấm phát triển thành các búi trắng như bông.
Cá bị bệnh nấm thủy mi bơi lội bất thường, thích cọ xát vào các vật thể trong nước làm tróc vẩy trầy da, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập. Sau đó nấm lan ra khắp cơ thể, càng làm cho cá dễ nhiễm bệnh. Ngoài ra nấm thủy mi có thể ký sinh làm ung trứng của cá.
>>> Xem thêm về chuyên mục phòng và trị bệnh thủy sản
Phân bố và lan truyền bệnh
Bệnh nấm thủy mi xảy ra ở hầu hết các loài cá nước ngọt như cá trắm cỏ, cá trôi, cá mè, cá chép và còn gây ung trứng cá nhất là trứng cá chép. Bệnh hay phát triển ở các đàn cá bị thương tổn trên da do tác động cơ học. Như đánh bắt, vận chuyển hay do ký sinh trùng ký sinh.
Bệnh phát triển mạnh trong các ao nuôi bị ô nhiễm. Do mùn bã hưu cơ, ao nuôi ít được thay nước và trong các bể ấp có nhiều trứng bị ung. Nấm thường phát triển đầu tiên ở các trứng bị ung. Sau lây lan nhanh sang các trứng khỏe và gây chết hàng loạt.
Cách phòng bệnh và điều trị bệnh trên cá
- Thực hiện kỹ thuật tẩy dọn ao trước mỗi vụ nuôi.
- Nuôi cá với mật độ thích hợp. Tránh tác động cơ học hoặc do ký sinh trùng làm cá bị tổn thương
- Duy trì và ổn định nhiệt độ trong ao bằng nhiều cách. Như duy trì mực nước ao 1,5m, phủ bèo tây 2/3 ,mặt ao…
- Dùng thuốc diệt nấm cho cá. Có thể dùng một số hóa chất để trị bệnh nấm thủy mi: Methylen 2 – 3g/m3, KMnO4 1 – 2g/m3 tạt xuống ao và lặp lại 2 lần trong 1 tuần. Hoặc dùng dung dịch muối ăn 3% tắm cá trong 15 phút. Cá nuôi trong lồng có thể dùng KMnO4 hòa với nước vôi trong tạo ra màu bourdo tắm cho cá.