Bệnh u nang bã đậu ở trong ruột cá chép là do những bào tử sợi gây ra, làm cho cá chép rất chậm lớn, tiêu tốn cực kỳ nhiều thức ăn, giảm đi giá thương phẩm và gây chết cá hàng loạt. Theo như các kết quả nghiên cứu của Học viện Nông nghiệp Việt Nam năm 2017 cho thấy thì ở Hải Dương, tỷ lệ ao nuôi cá chép bị mắc bệnh u nang do bào tử sợi đã chiếm từ 30 đến 40%. Và đối với các ao nuôi không khử trùng thường xuyên lại có nguy cơ bị bệnh gấp 4 lần bình thường.
Mục Lục
Sơ lược về loài cá chép

Cá chép là loài cá nước ngọt được nuôi phổ biến, chất lượng thịt thơm ngon, bổ dưỡng được người tiêu dùng ưa chuộng. Cá có khả năng chịu lạnh tốt và có thể nuôi được trong nhiều thủy vực như ruộng, ao, sông, hồ chứa và trong nhiều hệ thống nuôi như quảng canh, bán thâm canh hay thâm canh. Trước đây, cá chép thương phẩm chủ yếu được nuôi ghép với tỷ lệ thả thấp (dưới 10% tổng số cá thả) nên dịch bệnh ít xuất hiện.
Hiện nay, cá chép đã trở thành đối tượng nuôi chính với tỷ lệ ghép cao, dịch bệnh liên tục xảy ra gây nhiều thiệt hại cho người nuôi. Bệnh kênh mang do ấu trùng sán lá ruột Centrocestus formosanus gây ra, bệnh KHV do virus Herpesvirus gây ra và gần đây nhất là bệnh u nang bã đậu trong ruột cá chép.
Những dấu hiệu bệnh lý của u nang bã đậu
Cá có biểu hiện chậm lớn, bơi lờ đờ, đen thân, bụng chướng to, ruột sưng, tích nước, trong ruột chứa nhiều bào nang (khoảng 92 bào nang) màu trắng bã đậu có kích thước 2,6×2 cm (tối đa 5,3×3,7 cm). Bào tử sợi được nhận dạng thuộc loài Thelohanellus kitauei.
Bào tử sợi thường ký sinh trên vây, da, mang và ở nội tạng của cá chép. Gây hại nhiều cho cá chép nuôi khi chúng gây nhiễm trên mang làm cho cá khó hô hấp. Gây tắc ruột không hấp thu được thức ăn. Bệnh xảy ra nhiều nhất tại các ao nuôi ghép cá chép với tỷ lệ ghép cao (28%). Nhưng không thấy xuất hiện ở đối tượng nuôi khác. Tuy nhiên, ở Bangladesh bệnh bào tử sợi còn xuất hiện cả trên cá trôi.
Các triệu chứng thường thấy của bệnh u nang bã đậu
Cá bị bệnh có các triệu chứng như: đen thân, bụng chướng to, nổi vật vờ. Dạt vào bờ, quẫy mạnh và nhảy lên khỏi mặt nước. Một số cá bệnh bong vảy bụng, lỗ hậu môn giãn rộng, khi chết cơ thể dựng như đang bơi.
Khi mổ khám cá chép bị bệnh đều thấy có hiện tượng tích nước ở các nội quan, ruột chứa nhiều khối u bã đậu làm cho thành ruột mỏng, tích dịch dạng thạch lỏng trong ruột, nội tạng khác bị sưng hoặc hoại tử.
Bào nang chỉ xuất hiện ở ruột cá chép mà không thấy xuất hiện ở cơ quan nội tạng khác. Cá chép bị bệnh có triệu chứng và bệnh tích điển hình là số lượng bào nang trung bình 17 bào nang/cá. Kích cỡ bào nang 2,6×2 cm. Tối đa có cá chứa đến 92 bào nang và bào nang lớn nhất đo được 3,7×5,3 cm. Bào nang trong đường ruột cá chép có kích thước lớn hơn bào nang của các loài bào tử sợi ký sinh ở mang cá chép.
Nguyên nhân gây ra bệnh và cách phòng chống
Bệnh u nang đường ruột thường xảy ra ở các ao không được vệ sinh khử trùng; trước khi thả giống, ao nhiều bùn và chất thải chăn nuôi… Khử trùng nước khi nuôi cũng không thể loại bỏ hết nguy cơ. Dẫn đến ao nuôi có bệnh bào tử sợi. Do vậy để hạn chế dịch bệnh các ao nuôi cần được tát cạn, hút bớt bùn, phơi nắng, bón vôi bột khử trùng. Hiện nay, Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đang thử nghiệm một số thuốc điều trị bệnh u nang có hiệu quả, sẽ sớm công bố, hướng dẫn cho người nuôi sử dụng.
Phòng bệnh tổng hợp

- Định kỳ dùng 1 – 2kg vôi/100m3 nước/tuần. Khi trời mưa dùng 2kg vôi/100m3.
- Treo túi vôi 2 – 4kg/túi tại các điểm cho ăn
- Giống trước khi thả tắm qua nước muối 2 – 3kg/100lít nước thời gian 5 –10 phút.
- Chọn công thức và đối tượng nuôi phù hợp cho từng ao.
- Định kỳ dùng chế phẩm sinh học như EMC, BIODW, BIOBAC… để cải thiện môi trường nước ao nuôi.
- Bổ sung vitamin C từ 200 – 300g cho 100kg thức ăn, cho cá ăn định kỳ. Để tăng sức đề kháng cho cá.
- Thay nước cho ao: những nơi có nguồn nước thuận lợi. Thì ta có thể thường xuyên thay và cấp thêm nước mới cho ao. Lượng nước thay từ 20 – 30% lượng nước trong ao.
Phòng bệnh bằng một số cây thảo mộc
- Cây chuối: thân cây thái nhỏ và lá chặt thành đoạn cho cá ăn.
- Cây tỏi: Tỏi xay nhỏ trộn vào thức ăn với liều lượng 0.5 – 1kg/100kg thức ăn. Cho ăn 6 ngày liên tục.
- Cây Rau sam: rửa sạch bằng nước muối và cho ăn 1.5 – 3kg rau/100kg cá
- Cây nhọ nồi: nghiền lấy nước và dùng cả bã cho cá ăn với liều lượng 2 -3kg/100kg cá/ngày.
- Các cây thảo mộc trên đều phòng và chữa tốt các bệnh về đường ruột cho cá.
Xem thêm những bài viết hay khác tại đây.