Tôm càng xanh là loài tôm bản địa mang lại giá trị kinh tế cao. Hiện nay, mô hình nuôi tôm càng xanh ở nước ta ngày càng được nhiều bà con quan tâm. Nuôi tôm càng xanh bán thâm canh không gây ô nhiễm môi trường lại phù hợp với những hộ không có vốn đầu tư lớn. Mô hình này đang được áp dụng rộng rãi ở nhiều địa phương trên cả nước. Để giúp người dân có thêm kinh nghiệm nuôi tôm càng xanh bán thâm canh, reservenz.com sẽ chia sẻ cho bà con cách nuôi giống tôm này. Cùng tìm hiểu kỹ thuật nuôi tôm càng xanh bán thâm canh thành công trong bài viết dưới đây nhé!
Mục Lục
Làm sạch ao nuôi tôm
Hệ thống ao gồm ao nuôi chiếm 70% diện tích mặt nước, ao lắng chiếm 30% diện tích mặt nước. Trước mỗi vụ nuôi cần xả cạn nước, xảm mọi, gia cố bờ bọng-cống rãnh, tiến hành bón vôi. Dùng vôi nông nghiệp CaCO3 bón với lượng 7 – 10 kg/100 m2 (đối với ao có độ phèn > 6), hoặc bón với lượng 15 – 20 kg/100 m2 (đối với ao có độ phèn > 4.5).
Sau khi bón vôi thì tiến hành phơi nắng, thường thời gian phơi nắng từ 3 – 5 ngày. Lấy nước vào ao thông qua lưới chắn cá tạp, địch hại, mức nước phù hợp từ 1.2 – 1.5 m. Sau khi lấy đủ nước thì tiến hành diệt tạp, sử dụng Saponine liều lượng 1 kg/100 m2, diệt tạp 3 – 5 ngày thì tiến hành bón phân. Sử dụng 2 lọai phân gồm phân hữu cơ và phân vô cơ.
Với phân hữu cơ, dùng các loại phân chuồng, đã qua ủ hoai, bón với lượng 25 – 30 kg/100 m2 ao. Nếu dùng phân vô cơ, có thể sử dụng DAP bón với lượng 300 – 500 g/100 m2 ao (trường hợp màu nước lên chậm có thể hỗ trợ thêm 1 kg bột cá, 1 kg bột đậu nành, 1 kg bánh dầu/100 m2 ao). Khi thấy nước có màu xanh đọt chuối non thì tiến hành thả giống.
Lựa chọn, thả và ương giống tôm càng xanh
Chọn giống tôm
Chiều dài thân tôm post 15 tối thiểu từ 1.2 – 1.5 cm. Thân hình cân đối, đồng cỡ, màu sắc trong sáng, hoạt động linh hoạt. Cơ thể không dính những cáu bẩn hoặc có những vết lạ. Tôm có đầy đủ những phụ bộ như chân bơi, chân bò, chủy, chân đuôi. Cho tôm vào thau nước quay nhẹ, tôm thường đi ngược nước và tản đều không gom lại giữa thau.
Thả giống tôm
Ngâm bao chứa tôm xuống ao ương giống trong thời gian 15 – 20 phút. Để nhiệt độ trong bao và ngoài môi trường cân bằng. Nơi thả giống cách bờ 1 – 2 m, mở bao chứa tôm cho tôm ra từ từ.
Tiến hành uơng giống
Thường phải ương thành giống cỡ 2 – 3 cm, hạn chế được hao hụt trong quá trình nuôi. Mật độ ương trung bình từ 200 – 300 postlarvae15/m2. Thời gian ương 30 – 45 ngày, thức ăn trong những ngày đầu gồm cá biển, cá tạp, mực, thịt nhuyễn thể, ốc,… nấu chín, xay nhuyễn, cho vào máng để tiện theo dõi theo nhu cầu sử dụng hàng ngày của tôm mà điều chỉnh.
Lượng ăn hàng ngày trong giai đoạn này chiếm 15 – 20% so với trọng lượng thân tôm. Từ tuần ương thứ hai trở đi có thể dùng thức ăn công nghiệp dạng viên cho tôm ăn. Hàng tuần tiến hành thay nước, lượng nước thay bình quân 30 – 60%. Nhằm tránh hiện tượng tôm ăn thịt lẫn nhau khi lột xác, cần đảm bảo trong ao phải có chà, chất chà chiếm từ 40 – 50% diện tích vùng tôm sinh sống (đáy ao), chà làm từ nguyên liệu tre, bần.
Mật độ thả tôm
– Nếu thả tôm post 15: 15 – 20 con/m2 (trừ tôm hao hụt trong quá trình thả nuôi).
– Nếu thả giống cỡ 2 – 3 cm: thả 10 – 12 con/m2.
Tôm càng xanh rất nhạy cảm với sự thay đổi của các yếu tố môi trường, đặc biệt là oxy hòa tan. Do đó, việc quản lý môi trường ao nuôi tốt là điều hết sức quan trọng. Mang tính quyết định đến sự thành công của vụ nuôi. Cần duy trì các yếu tố môi trường trong khoảng tối ưu hoặc trong các trường hợp có sự thay đổi, thì biên độ của sự thay đổi càng nhỏ là càng tốt.
Thức ăn cho tôm càng xanh
Tôm càng xanh sử dụng được nhiều loại thức ăn khác nhau như ốc, cá tạp, đầu tôm, phế phẩm từ lò mổ, phế phẩm từ nhà máy chế biến thủy sản, thịt mực, thịt nhuyễn thể,… Thức ăn có nguồn gốc từ động vật là chính. Ngoài ra, có thể dùng thức ăn công nghiệp dạng viên có hàm lượng đạm >25%, tuỳ theo kích thước tôm mà sử dụng kích cỡ viên khác nhau. Hoặc tự chế biến thức ăn tại chỗ bằng các nguyên liệu sẵn có tại địa phương gồm: bột cá 25%, bột đậu nành 20%, bột xương 2%, bột lá gòn 5%, Premix C 2%, dầu mực 1%, cám gạo 35%, bột mì 10%.
Thu hoạch
Sau thời gian nuôi khoảng 4 tháng có thể tiến hành thu hoạch. Chủ yếu là những cá thể không có khả năng phát triển (tôm càng xào, ốp vỏ). Việc thu hoạch cần lưu ý đến kích cỡ, chất lượng tôm nuôi và giá cả thị trường. Thu hoạch tôm càng xanh cần phải tiến hành thu nhiều lần. Thực hiện các biện pháp tăng cường oxy bằng cách sục khí trong các bể chứa tôm thương phẩm nhằm để tôm không bị chết ngạt.
Trước tình hình như hiện nay, việc nuôi tôm biển ở những vùng ngọt hóa, vùng ngoài quy hoạch, vùng có độ mặn thấp gặp quá nhiều rủi ro và khó khăn thì việc phát triển nuôi đối tượng tôm càng xanh bán thâm canh nhằm đa dạng hóa đối tượng nuôi để hạn chế rủi ro nhằm phát triển ổn định nghề nuôi trồng thủy sản phù hợp với định hướng và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương.