Cá basa của Việt Nam là một trong những mặt hàng thủy sản được rất nhiều nước trên thế giới ưa chuộng. Môi trường sống chủ yếu của giống cá này là ở nước ngọt. Cá basa được nhiều người dân ở khu vực phía Nam nuôi khá nhiều với mật độ dày đặc vì đặc tính dễ sống. Thức ăn cho loại cá này cũng khá đa dạng, chúng ăn các loại thức ăn có nguồn gốc từ động vật, động vật phù du, thậm chí là ăn thịt lẫn nhau, hỗn hợp tấm, cám, rau và cả cá vụn (nấu chín),… Nên bà con chăn nuôi rất dễ dàng trong việc chăm sóc, cung cấp chất dinh dưỡng cho loài cá này.
Mục Lục
Cá basa có những đặc điểm gì?
Về ngoại hình, cá basa rất dễ phân biệt đối với các loài khác trong họ cá tra. Thân ngắn hình thoi, hơi dẹp bên, lườn tròn, bụng to tích lũy nhiều mỡ, chiều dài tiêu chuẩn bằng 2,5 lần chiều cao thân. Đầu cá ba sa ngắn hơi tròn, dẹp đứng. Miệng hẹp, chiều rộng của miệng ít hơn 10% chiều dài chuẩn, miệng nằm hơi lệch dưới mõm. Dải răng hàm trên to rộng và có thể nhìn thấy được khi miệng khép lại. Có 2 đôi râu, râu hàm trên bằng 1/2 chiều dài đầu; râu hàm dưới bằng 1/3 chiều dài đầu.
Răng trên xương khẩu cái là một đám có vết lõm sâu ở giữa. Và hai đám răng trên xương lá mía nằm hai bên. Có 40-46 lược mang trên cung mang thứ nhất, vây hậu môn có 31-36 tia vây. Răng vòm miệng với dải răng trên xương khẩu cái ở giữa và răng trên xương lá mía ở 2 bên. Chiều cao của cuống đuôi hơn 7% chiều dài chuẩn. Mặt lưng có màu nâu, mặt bụng có màu trắng.
Mùa vụ nuôi cá basa
Ở đồng bằng sông Cửu Long, do có điều kiện thuận lợi khí hậu ấm áp quanh năm, nên có thể thả giống cá nuôi vào bất kỳ thời gian nào trong năm. Điều này chỉ tùy thuộc vào việc các chủ bè thu hoạch bán hết cá thì sẽ nuôi vụ tiếp theo. Nhưng có 2 vụ chính để thả giống vào bè. Một số chủ bè đã kéo dài thêm thời gian nuôi 6-9 tháng nữa. Vì vậy cỡ cá thu hoạch cũng lớn hơn (có thể đạt 1,8-2,2 kg/con).
Trong quá trình nuôi, chỉ thu hoạch một lần hết số cá. Vì kinh nghiệm cho thấy, nếu thu hoạch một phần (thu tỉa), thì số cá còn lại dễ bị sốc, thường bỏ ăn dẫn đến hao hụt lớn. Chủ bè có thể mong đợi khi thu hoạch có giá bán cao để có lợi nhuận nhiều hơn.
>>> Tham khảo thêm chuyên mục phương pháp nuôi thuỷ sản
Kỹ thuật làm bè nuôi cá basa
Việc nuôi cá trong bè thuận tiện cho việc chăm sóc và thu hoạch, người nuôi dễ theo dõi trọng lượng cá để vỗ béo vào những thời điểm cần thiết. Tuy nhiên với phương pháp này, chi phí lần đầu cần đầu tư khá cao. Các bè này được đóng bằng gỗ tốt và chịu nước. Loại bè này đủ sức chịu đựng được với điều kiện sóng gió, nước chảy. Việc đóng mới các loại bè kiên cố hiện nay cũng gặp khó khăn do khan hiếm các loại gỗ tốt. Vì vậy có một số bè mới được thiết kế bằng các loại vật liệu mới như bè xi măng lưới thép,…
Bè nuôi cá thường có dạng hộp chữ nhật, ngoại trừ một số bè cỡ nhỏ dùng cho ương cá giống thì có dạng hộp vuông. Người nuôi cá bè cho rằng dạng bè hộp chữ nhật dễ dàng trong chọn gỗ thiết kế và quản lý sử dụng. Ngoài ra dạng này cũng phù hợp cho việc làm nhà trên bè theo truyền thống. Và cũng là nơi chế biến thức ăn, nhà kho, chuồng chăn nuôi,…
Mặt bè được đóng kín bằng thanh nẹp gỗ. Có chứa 2-3 cửa để cho cá ăn, chăm sóc và thu hoạch cá. Cửa mặt bè có nắp đậy và nâng hạ được, kích thước 1m x 2m. Nẹp gỗ đóng theo chiều ngang của bè, cách nhau 1-5cm. Hông bè được ghép bằng ván gỗ ở phía trong trụ đứng. Khe hở giữa các tấm ván cách nhau 1-1,5cm để cá không thoát ra ngoài. Đôi khi khoảng cách này còn tùy thuộc vào tốc độ dòng chảy. Đáy bè đóng ván khép kín (chừa khe hở 1-1,5cm) để tránh thất thoát thức ăn và cho các loài cá nuôi ghép ăn đáy tận dụng hết thức ăn thừa.
Cách chọn cá giống tốt
Khi chọn giống phải là những con khỏe mạnh, màu sắc tươi sáng. Không có dấu hiệu bệnh tật hay xây xát và có kích cỡ đều nhau. Để tránh tình trạng tăng trưởng không đồng đều. Thường thì cá basa có chiều dài từ 10-12cm. Nên thả cá ở mật độ từ 15-20 con/m2. Trước khi tiến hành thả cá, cần tắm cho cá tầm 5-6 phút với nước muối 2% để khử trùng. Nên thả từ từ, nhẹ nhàng để cá thích nghi dần với môi trường mới
Thức ăn cho cá
Thức ăn cho cá nuôi trong bè hiện nay đều sử dụng thức ăn phối hợp tự chế biến. Các nguyên liệu dùng để chế biến thức ăn gồm có: cá tạp (cá linh, cá biển,…), cám gạo, tấm, rau và một số phụ phẩm khác (bánh dầu,…). Trong đó cám gạo chiếm 55-60%, cá tạp từ 23-27,5%.
Những nguyên liệu trên được trộn và xay nhuyễn, nấu chín và cho cá ăn từ 2- 3 lần trong ngày. Khẩu phần ăn từ 7-10% trọng lượng thân/ngày. Hai tháng trước khi thu hoạch có thể tăng lên cho cá ăn 4 lần trong ngày. Nhằm thúc cho cá béo và tăng trọng nhanh hơn. Cho cá ăn vào lúc thủy triều lên hoặc xuống. Để khi cá no là lúc nước chảy mạnh giúp cho cá không bị mệt.
Theo dõi tình hình ăn và mức lớn của cá. Để tính toán điều chỉnh lượng thức ăn cho hợp lý và kịp thời. Vào mùa nắng nước chảy yếu, khi nước ròng phải kịp thời trợ lực dòng chảy qua bè bằng máy bơm hoặc quạt nước giúp cho cá không bị thiếu oxy. Trước khi thu hoạch 1-3 ngày, giảm ăn và ngưng hẳn để tránh cá yếu và chết khi vận chuyển. Cỡ cá thu hoạch từ 1-3 kg/con.
Thu hoạch cá
Sau vụ nuôi 10-12 tháng, cá có thể đạt 1,3-1,5kg/con (cá basa). Một số bè nuôi lưu cá basa thêm 6-9 tháng, cỡ cá có thể đạt tới 1,8-2,2kg/con. Đôi khi cá thu hoạch dựa vào thời điểm, giá cả và lợi nhuận tính toán hoặc phụ thuộc vào người mua (các công ty chế biến xuất khẩu)
Năng suất nuôi hiện nay khoảng 120kg trên mét khối bè nuôi. Và sản lượng cá thu hoạch trung bình từ 50-160 tấn/bè tuỳ theo quy cỡ bè. Trước khi thu hoạch 2-3 ngày, phải giảm lượng thức ăn và ngày cuối ngưng hẳn. Khi thu cá, dùng lưới bắt từ từ và ngày cuối ngưng hẳn. Khi thu cá, dùng lưới bắt từ từ cho đến hết. Nên thu trong một thời gian ngắn để tránh hao hụt và thất thoát.