Bệnh viêm não tủy gà (AE) hay bệnh run rẩy ở gà (Epidemic Tremor) là một căn bệnh truyền nhiễm của gà con với các rối loạn phối hợp vận động như liệt và co giật. Đồng thời, ở gà lớn, virus gây bệnh mãn tính làm giảm tỷ lệ đẻ trứng và chết phôi. Bệnh thường gặp ở nhiều nước trên thế giới. Hôm nay, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nguyên nhân, triệu chứng và cách phòng trị bệnh viêm não tủy gà một cách hiệu quả qua bài viết ngày hôm nay nhé!
Mục Lục
Nguyên nhân gây ra bệnh viêm não tủy gà
- Do virut Avian Encephalomyelitis (AEV), khá bền vững ở môi trường.
- Bệnh truyền dọc qua trứng là chính. Gà đẻ bệnh truyền virut và làm phôi chết, tỷ lệ nở giảm. Gà con nở ra biểu hiện triệu chứng lâm sàng và gây ô nhiễm mầm bệnh máy ấp.
- Gà con có thể nhiễm virut qua thức ăn, nước uống.
- Virut tăng sinh ở ruột và theo phân thải ra ngoài, gây ô nhiễm môi trường.
Dịch tễ
Bệnh có thể lây truyền dọc qua trứng, virus này truyền qua trứng trong vòng 3 – 6 tuần, trứng đem ấp có thể gây chết phôi hoặc gà nở ra 1 ngày tuổi đã phát bệnh. Ngoài ra, bệnh cũng có thể lây truyền qua thức ăn, nước uống, do những con bị bệnh bài thải mầm bệnh ra môi trường chuồng trại. Bệnh cũng có thể lây nhiễm từ những đàn gà bệnh sang đàn gà không bệnh. Do nhập đàn mới hay do di chuyển đến một nơi khác đã có mầm bệnh. Lây nhiễm qua dụng cụ và người chăn nuôi.
Ðặc điểm: Thời gian nung bệnh khoảng 5 – 14 ngày. Gà, chim cút đều mẫn cảm, gà tây là ký chủ tự nhiên.
>>> Xem thêm những bài viết về phòng và điều trị bệnh trong chăn nuôi
Triệu chứng bệnh
- Ủ bệnh 5-14 ngày, phụ thuộc đường lây truyền.
- Bệnh biểu hiện ở gà con ngay từ khi ấp hay trong tuần tuổi đầu, nhất là khi virut lây truyền qua trứng.
- Triệu chứng dễ nhận thấy nhất vào 2 tuần tuổi. Gà bệnh xáo động và miễn cưỡng vận động. Khi đuổi, gà đi loạng choạng sau đó lại nằm ngay rồi run rẩy đầu, cổ, cánh.
- Tỷ lệ gà ốm 10-50%, trong đó gà chết có thể đến 70%.
- Gà quá 8 tuần tuổi ít khi biểu hiện triệu chứng lâm sàng, tỷ lệ đẻ giảm 5-50%, tỷ lệ trứng nở giảm nghiêm trọng.
Về bệnh tích
Không thấy tổn thương lớn, nhưng kiểm tra tế bào học não, diều, tụy có những biến đổi đặc trưng.
Cần phân biệt với thoái hóa não do thiếu vitamin A.
Về chẩn đoán
- Triệu chứng lâm sàng, dịch tễ là cơ sở quan trọng để chẩn đoán bệnh: Lứa tuổi; run rẩy đầu, cổ, cánh ở gà con và giảm sản phẩm thịt ở gà thịt và giảm đẻ.
- Mổ khám không thể phát hiện được gì.
- Kiểm tra tổ chức học, nuôi cấy virut trên phôi gà. Làm phản ứng trung hòa.
Cách phòng bệnh
- Không có liệu pháp đặc hiệu mà chủ yếu sử dụng vacxin, nhất là đàn hậu bị và gà đẻ. Kết hợp sử dụng các biện pháp an toàn sinh học để phòng bệnh.
- Phòng bệnh bằng vacxin cho đàn gà giống hay gà đẻ trứng lúc 12-15 tuần tuổi, theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Miễn dịch hình thành sau 3 tuần tuổi.
- Miễn dịch từ gà mẹ truyền qua trứng bảo hộ cho gà con được 2-3 tuần đầu.
- Bổ sung các vitamin thiết yếu như: Vitamin A, D, E, các vitamin nhóm B và vitamin C…
Ðiều trị
Bệnh do virus gây ra nên hiện không có thuốc điều trị đặc hiệu. Khi phát hiện gà bệnh cần loại bỏ những con bệnh nặng (bị liệt, quá yếu). Dùng kháng sinh phổ rộng (Chlotetrasol, Neomycin, Septotryl…) để chống vi khuẩn bội nhiễm kế phát. Liều lượng và cách sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Bên cạnh đó, để hạn chế số gà tử vong và tăng cường sức đề kháng cho cả đàn gà người nuôi cần bổ sung thêm vitamin, cung cấp điện giải, nước uống đủ cho cơ thể, chọn lọc gà ốm chăm sóc riêng, chống bệnh thứ phát… Cách thực hiện: Hạ thấp máng uống, máng ăn cho sát nền, bắt những gà bệnh đặc biệt là gà nằm bẹp ra nhốt riêng, bơm nước thuốc cho mỗi gà 4 – 5 ml/lần, ngày bơm 6 – 8 lần, bổ sung liên tục trong 3 – 4 ngày.