Viêm gan vịt là bệnh truyền nhiễm do vi rút gây ra với biểu hiện viêm gan, bệnh lây lan nhanh, tỷ lệ chết cao ở vịt con. Bệnh do 3 týp virus gây ra nhưng chủ yếu là týp I và týp II. Bệnh viêm gan vịt được Levine và Hofstad phát hiện lần đầu tiên vào năm 1945 tại Mỹ, sau đó bệnh xuất hiện ở hầu hết các nước Châu Âu và Châu Á.
Ở Việt Nam, từ năm 1978, Trần Minh Châu và cộng sự đã nghi ngờ bệnh viêm gan vi rút ở vịt. Từ đó đến nay, bệnh vẫn tiếp tục xuất hiện ở nước ta nhưng ít được quan tâm. Hiện dịch bệnh đang gây thiệt hại nặng nề tại các tỉnh phát triển chăn nuôi vịt ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long.
Mục Lục
Căn nguyên của bệnh viêm gan ở vịt
Virút gây bệnh viêm gan vịt hepatitis virus thuộc giống Picornavirus; họ Picornaviridae, nhân chứa ARN, được phân thành 3 type gồm: Type I, type II, type III. Trong đó type I gây bệnh phổ biến trong tự nhiên, vịt con có miễn dịch với virút type I vẫn mắc bệnh do sự tác động của virút type II hoặc type III. Virút có kích thước nhỏ dưới 50 nm. Virút có thể tồn lại lâu trong điều kiện tự nhiên.
Con đường lây truyền
Mầm bệnh tồn tại, phát tán trong tự nhiên có thể xâm nhập vào vật khoẻ qua miệng, mũi để gây bệnh. Vật hồi phục sau khi mắc bệnh có thể phát tán virút qua phân trong thời gian khoảng 8 tuần.
Cơ chế gây bệnh
Virus trong cơ thể vịt bệnh được thải ra ngoài qua phân và dịch bài xuất rồi nhiễm vào nguồn nước, bãi chăn thả, chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi. Sau đó, virus tiếp tục xâm nhập vào cơ thể vịt qua đường tiêu hóa, hô hấp và nơi da bị tổn thương. Vào cơ thể vịt, virus theo máu đến các cơ quan phủ tạng. Đặc biệt là gan – cơ quan thích ứng nhất của virus. Quá trình bệnh lý được biểu hiện qua hai giai đoạn:
Ở giai đoạn đầu, virus gây rối loạn trao đổi chất ở gan. Do quá trình trao đổi mỡ ở gan và đặc biệt là quá trình trao đổi cholesterol bị đình trệ làm cho lượng glycogen trong gan giảm thấp nhưng lượng lipid lại tăng cao. Vì vậy, vịt con ở thời kỳ cuối của bào thai thiếu năng lượng dẫn đến sức đề kháng giảm sút.
Giai đoạn thứ hai là lúc virus trực tiếp phá hoại tế bào gan, tế bào nội mô huyết quản, gây ra xuất huyết đặc trưng. Virus sinh sản trong tế bào gan. Nhất là tế bào thuộc mạng lưới hệ võng mạc nội mô như tế bào Kuffer. Khi kiểm tra thấy tổ chức gan bị phá hoại, cơ thể không được giải độc làm con vật chết do ngộ độc.
Triệu chứng của bệnh
– Bệnh xảy ra trên vịt ở hai nhóm tuổi từ 1-2 tuần và 4-6 tuần. Ngoại trừ đàn đã được tiêm phòng vacxin. Tỷ lệ tử vong ở vịt 1-2 tuần tuổi có thể dưới 50%. Và không đáng kể ở giai đoạn 4-6 tuần tuổi.
– Vật mắc bệnh nằm nghiêng hai chân đạp liên hồi như chèo thuyền và chết rất nhanh trong tư thế thân ưỡn cong, đầu và hai chân hướng về phía sau.
>>> Tham khảo thêm những thông tin về phòng và điều trị bệnh trong chăn nuôi
Bệnh tích của bệnh
– Gan giãn rộng, nhạt màu, trên bề mặt lốm đốm các điểm xuất huyết.
– Lách giãn rộng, thận sưng, mạch quản thận sung huyết.
Cách điều trị bệnh hiệu quả
Dùng 0,5 ml kháng thể chế từ trứng của gà được gây tối miễn dịch. Tiêm nội cơ cho vịt ngay khi trong đàn có dấu hiệu của bệnh.
Phương pháp phòng bệnh
Thực hiện chăn nuôi trong điều kiện đảm bảo an toàn sinh học. Kết hợp với tiêm phòng vacxin sẽ nâng cao khả năng phòng bệnh.
Vacxin Viêm gan vịt an toàn có thể tiêm phòng cho vịt, ngan ở mọi lứa tuổi. Nếu vịt con, ngan con nở ra từ trứng được đẻ ra từ vịt mẹ đã được phòng bệnh viêm gan vịt thì tiến hành tiêm vacxin vào lúc 7-10 ngày tuổi; nếu vịt mẹ chưa được phòng bệnh thì phòng bệnh cho vịt con, ngan con ngay lúc mới nở.
Khi sử dụng vacxin tiến hành pha vacxin đông khô tan đều trong nước sinh lý vô trùng, nước cất hoặc dung dịch chuyên dụng theo liều ghi trên nhãn đảm bảo một liều/con tương đương 0,1 ml.
Vacxin Viêm gan vịt được đưa vào cơ thể con vật qua đường miệng, mắt hoặc qua đường tiêm. Vịt mới nở thì cho uống hoặc nhỏ mắt 0,1 ml/con; ngoài ra có thể tiêm dưới da hoặc tiêm bắp cho vịt lớn hơn với liều 0,1 ml/con.