Việc ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp nói chung, đặc biệt là sản xuất nuôi trồng thủy sản đã trở thành xu hướng tất yếu hiện nay. Vì vậy, nhờ ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản đã giúp ngành thủy sản nâng cao năng suất, chất lượng, đáp ứng yêu cầu, tạo sức cạnh tranh và uy tín hơn. Và uy tín của thủy sản Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như xuất khẩu. Bạn hãy cùng với Reservenz.com đón xem qua bài viết sau đây nhé.
Mục Lục
Nghiên cứu thực trạng hệ thống thủy sản
Một HTNTTS đã chọn, người nghiên cứu đi sâu phân tích về mặt kỹ thuật và về kinh tế xã hội. Mục tiêu của loại này có tính chất học thuật; kinh điển hơn là thực tiễn giải quyết khó khăn trở ngại để cải tiến HTNTTS.
Nghiên cứu trên chuồng trại
Là loại nghiên cứu xuất phát từ quan điểm cho rằng chỉ cần thử nghiệm ngoài đồng là đủ để nhà nghiên cứu đưa ra giải pháp thỏa mãn nhu cầu thật sự của nông dân. Tiến trình tiêu biểu của nghiên cứu thực địa; tách từ hệ thống ra một hệ thống phụ. Và nghiên cứu nó đủ sâu (trong mối quan hệ với những hệ thống phụ khác – quan điểm hệ thống). Và đi đến việc thực hiện trên đồng ruộng càng nhanh càng tốt với sự tham gia của nông dân (trông coi, thực hiện một số thao tác thí nghiệm).
Phương pháp phát triển hệ thống nuôi trồng thủy sản mới
Là phương pháp nghiên cứu bắt đầu với quan điểm cho rằng HTNTTS ở vùng nhiệt đới đã vấp phải quá nhiều rủi ro đến nỗi cần đưa ra một HTNTTS mới hơn là nghiên cứu cải tiến chúng. Trong khi nghiên cứu thực địa tìm cách đưa kỹ thuật thích hợp; với điều kiện tài nguyên của nông dân thường cần đến vai trò điều tiết của chính quyền. Và đưa ý niệm hiệu quả kinh tế vào các biện pháp kỹ thuật.
Ứng dụng RAS trong nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam
Trong những năm trở lại đây, hoạt động nuôi trồng thủy sản ngày càng tăng trưởng mạnh. Và thu hút nhiều đầu tư (BĐ1) nhờ nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng của cả thị trường trong nước lẫn xuất khẩu (BĐ2). Tuy nhiên, việc nuôi trồng theo phương pháp truyền thống (lồng bè, ao hồ tự nhiên, dẫn nước thải ra môi trường ngoài); càng tăng thì mối đe dọa đến môi trường xung quanh càng lớn.
Hệ thống RAS đã được ứng dụng thực tế ở một số nơi trong nước. Với nhiều quy mô và đối tượng nuôi khác nhau. Từ các loại thủy sản chiến lược (cá tra, tôm) cho đến các loại có giá trị kinh tế cao (cá chình bông, cá chạch quế, trắm đen, cá tầm,…). Ví dụ, tại một nông hộ nuôi cá tầm ở Đà Lạt; công nghệ này đem lại năng suất 70 kg/m3 (ước tính sau 1 năm ao nuôi 300 m2 sẽ thu hoạch 15 tấn cá); triển khai ứng dụng công nghệ RAS nuôi lươn tại Trại Cá giống Trực (Gò Công, Tiền Giang). Với quy mô bể nuôi 6m2, dự kiến sẽ cho thu hoạch 300–500 kg/vụ nuôi.
Tại TP.HCM, công nghệ RAS đã được Công ty TNHH Khoa học Nuôi trồng thủy sản và Môi trường SAEN (TP.HCM) ứng dụng để nuôi cá chạch quế, đạt năng suất 100 kg/m3 (tương đương 12 tấn/80m3/5 tháng); cá chình bông 3,2 tấn/80m3/13 tháng; cá bống, cá trắm đen 100 kg/m3 và ương giống cá chạch lấu, tỷ lệ sống đạt 95%.