Trong lĩnh vực chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam, người chăn nuôi không chỉ đầu tư phát triển mà còn chú trọng đến các loại bệnh thường xảy ra trên gà, vịt, ngan, ngỗng … Bệnh gà rù (tên khoa học là Newcastle) là một bệnh phổ biến ở nước ta với tốc độ lây lan cũng như tỷ lệ chết cao, gây thiệt hại nặng nề cho người chăn nuôi. Vì vậy, việc nâng cao hiểu biết và có kiến thức vững chắc về bệnh là vô cùng quan trọng.
Ở Việt Nam, bệnh gà rù thường xuất hiện trên gà ở mọi lứa tuổi vào tất cả các mùa trong năm, chủ yếu là mùa đông xuân.
Mục Lục
Nguyên nhân gây bệnh gà rù
Bệnh lây lan qua đường tiêu hóa và hô hấp do tiếp xúc giữa gà ốm và gà khỏe; Do phương tiện vận chuyển thức ăn, nước uống nhiễm mầm bệnh; Do tiếp xúc với động vật, chim hoang dã mang mầm bệnh, bệnh gây viêm, xuất huyết, loét niêm mạc đường tiêu hóa, nhiễm trùng máu, thần kinh… nên thường gây tử vong ở gà rất cao.
Chú ý: Gà tây, gà sao, vịt, ngan, bồ câu, chim cút cũng nhiễm bệnh này.
>>> Tham khảo thêm chuyên mục phòng và trị bệnh trong chăn nuôi
Những triệu chứng, bệnh tích
Triệu chứng: Gà bỏ ăn, đứng khoác áo tơi, chân lạnh, hắt hơi, khò khè, chảy nước mũi nhớt trắng – đỏ, khát nước uống nhiều nước, diều căng mềm toàn nước, diều chướng toàn hơi, chảy nước nhớt có dây ở miệng, gà thường vươn cổ kêu cho dễ thở, lúc đầu gà đi phân táo bón sau đó lại tiêu chảy phân có màu trắng, xanh (phân cứt cò), có bọt hoặc máu. Gà ủ rũ, xã cánh, ít ăn, phân màu trắng xanh. Gà biểu hiện khó thở, thở hắt và ngáp. Tỷ lệ chết 75 – 100%. Số còn lại ở thể bệnh mãn tính biểu hiện triệu trứng thần kinh đi vòng tròn, mổ không trúng thức ăn.
Bệnh tích: Xuất huyết cơ quan tiêu hóa và cơ quan hô hấp. Dạ dày tuyến xuất huyết ở đỉnh lỗ tuyến. Ruột viêm loét, nỏi gồ hình cúc áo. Trực tràng, hậu môn xuất huyết. Thanh khí quản xuất huyết. Phổi viêm túi khí đục.
Các thể bệnh gà rù
Thể Doyle (dòng virus bệnh gà rù độc hướng đường ruột)
- Bệnh biểu hiện cấp tính, chết ở mọi lứa tuổi, tỉ lệ chết 100%
- Sưng mặt, đầu phù, chảy nước mắt, nước mũi
- Co giật, liệt chân
- Tiêu chảy, đi phân xanh và có vết máu
Thể Beach ở bệnh gà rù
- Do Beach phát hiện năm 1942
- Còn gọi là thể thần kinh do VR độc lực cao gây nên (neurotropic velogenic ND – NVND)
- Là thể bệnh cấp tính gây chết nhiều ở gà mọi lứa tuổi
- Bệnh tích đặc trưng ở đường hô hấp
- Gà có các triệu chứng thần kinh
Thể Baudette :
- Do Baudette mô tả năm 1946
- Là thể bệnh với biểu hiện bệnh lý nhẹ hơn thể NVND
- Thường chết ở gà con
- Do chủng virus nhóm mesogen; những chủng này có thể dùng để chế vacxin nhược độc sử dụng lần 2
Thể Hitchner
- Do Hitchner mô tả năm 1948
- Triệu chứng và bệnh tích nhẹ hoặc không rõ ràng
- Do virus nhóm lentogen gây nên; những chủng này dùng để chế vacxin nhược độc
- Thể đường ruột không có triệu chứng (asymptomatic – enteric form)
- Gà không có biểu hiện triệu chứng
- Những chủng virus nhóm lentogen gây bệnh thể này thường được dùng để chế vacxin
- Bệnh gà rù còn có thể nhẹ hướng tiêu hóa
- Không biểu hiện rõ ràng
Cách phòng bệnh
Không có thuốc điều trị bệnh Newcastle, vì vậy phòng bệnh, trong đó vệ sinh thú y và tiêm phòng vaccine đầy đủ có thể đảm bảo an toàn dịch bệnh.
Cụ thể: Cách ly tốt đàn gà, trại gà; Thực hiện tốt quy trình nuôi dưỡng, vệ sinh chuồng gà và trại; Tiêm phòng kịp thời và đầy đủ theo lịch hướng dẫn cho đàn gà nuôi, không nên nuôi chung gà các lứa tuổi. Bên cạnh đó, người chăn nuôi phải luôn chú ý đến khâu vệ sinh thức ăn, nước uống, chuồng trại.
Phòng bệnh bằng vaccine: Dùng vaccine Lasota nhỏ mắt mũi lúc 3 – 7 ngày tuổi, 21 ngày tuổi. Tiêm vaccine Newcastle hệ I lúc 60 ngày tuổi và 135 ngày tuổi. Hoặc sử dụng vaccine Newcastle chịu nhiệt pha nước cho uống theo hướng dẫn của thú y. Cần chú ý đến tác dụng, thời hạn của loại vaccine này khi đến thời điểm phải dùng ngay và hết thời hạn thì phải dùng tiếp để gà có thể miễn dịch bền vững.
Thường xuyên kiểm tra đàn gia cầm, đặc biệt phát hiện sớm những bất thường trên đàn vật nuôi như: Uể oải, ủ rũ, kém ăn; Tình trạng sức khỏe đàn gia cầm. Cách ly kịp thời những vật nuôi có biểu hiện khác thường. Khi nghi ngờ gia cầm mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như cúm gia cầm, phải báo ngay cho thú y viên hoặc khuyến nông viên cơ sở để có biện pháp can thiệp kịp thời, tránh lây lan, bùng phát dịch bệnh. Khi có gia cầm ốm, chết phải đào hố, chôn sâu, rắc vôi bột; Tuyệt đối không giết mổ, vận chuyển, bán chạy, vứt xác chết bừa bãi ra môi trường xung quanh.
Biện pháp khi có dịch xảy ra
Bao vây ổ dịch không cho lây lan: Cách ly khu có dịch với các khu khác, có người nuôi dưỡng riêng. Nghiêm cấm sự tiếp xúc của người, súc vật từ nơi khác đến, tức là “nội bất xuất ngoại bất nhập”.
Chọn và loại triệt để gà bệnh, nghi bệnh. Xử lý gà loại, gà chết theo chỉ đạo hướng dẫn của cán bộ thú y… Không bán chạy, không ăn thịt gà bệnh. Gà ốm, chết phải chôn sâu, rắc vôi bột và phun thuốc tiêu độc sát trùng chuồng nuôi, sân thả, dụng cụ và các khu vực xung quanh.
Tiêm phòng cho gà khỏe vào thẳng ổ dịch: Nhỏ Lasota cho gà con dưới 1 tháng, gà trên 30 ngày tiêm vaccine Newcastle hệ I. Sau 1 tuần tiêm vaccine mà gà không chết là đã có thể yên tâm.
Tăng cường, chăm sóc nuôi dưỡng đàn gà bằng thức ăn chất lượng tốt, tổng vệ sinh chuồng trại, thiết bị dụng cụ chăn nuôi.
Ðể đề phòng bệnh thứ phát xâm nhập, cần cho liều kháng sinh nhẹ và bổ sung vitamin (ăn thêm rau xanh non) trong 7 – 10 ngày.
Chăn nuôi gà thả ở gia đình khi thấy có gà lù rù là phải nhốt cách ly ngay và thực hiện các biện pháp phòng bệnh cho toàn đàn.