Các loài vật nuôi như ngan, vịt được coi là những vật nuôi có khả năng thích nghi với điều kiện ngoại cảnh cao nhất. Mặc dù chịu được một số bất lợi về môi trường nhưng vịt và ngan vẫn thường xuyên bị một số dịch bệnh quan trọng tấn công, gây thiệt hại nặng.
Một số bệnh trên vịt, ngan một khi bùng phát sẽ nhanh chóng lây lan ra cả đàn và tồn tại lâu mới dập tắt được như dịch tả vịt, phó thương hàn, cầu trùng, tụ huyết trùng và dịch cúm gia cầm… Vì vậy, những hiểu biết cơ bản về vệ sinh thú y, phòng chống dịch bệnh ban đầu là cần thiết và hỗ trợ đắc lực cho người chăn nuôi, nhất là vùng sâu, vùng xa.
Việc chăn nuôi vịt, ngan không tránh khỏi những lúc trái gió trở trời, vịt bị bệnh, ảnh hưởng không tốt đến công việc chăn nuôi của bà con.
Mục Lục
Căn bệnh viêm gan virus ở vịt
Triệu chứng: Thời gian nung bệnh 2 – 4 ngày. Bệnh tiến triển nhanh khó phát hiện kịp. Vịt sã cánh, buồn ngủ, bỏ ăn, mệt mỏi nặng, nằm đầu ngoẹo ra sau hay về một bên, co giật toàn thân sau đó mới chết ở tư thế duỗi thẳng. Bệnh tiến triển rất nhanh, trong vòng 2 giờ, tỷ lệ bệnh 100% đàn, tỷ lệ chết 95 – 100% ở vịt con 1 – 3 tuần tuổi; 50% ở vịt 4 tuần trở lên.
Phòng, chữa bệnh:
- Không có thuốc đặc trị nên chỉ dùng biện pháp vệ sinh thú y để phòng; tiêm phòng vaccine cho vịt con và vịt trưởng thành, cách ly tốt vịt con 1 – 5 tuần tuổi tránh lây nhiễm.
>>> Tham khảo thêm chuyên mục phòng và trị bệnh trong chăn nuôi
Căn bệnh tụ huyết trùng
Triệu chứng: Bệnh thể quá cấp tính, ngan vịt chết đột ngột rất nhanh mà chưa có dấu hiệu bệnh tật. Bệnh cấp trong 1 – 3 ngày. Bệnh tụ huyết trùng gia cầm, thể hiện sốt, bỏ ăn, xù lông, dịch tràn ra miệng, tiêu chảy, thở gấp, tỷ lệ chết 50%.
Phòng, chữa bệnh:
- Chăm sóc, vệ sinh chuồng. Phòng bệnh bằng cách pha trộn vào thức ăn. Hoặc uống liên tục 2 – 3 ngày trong tuần khánh sinh: Cosumix 2 g/lít nước hoặc 2 g/kg thức ăn, Tetracyclin 1 g/4 lít nước hoặc 1 g/4 kg thức ăn.
- Tiêm vaccine 2 đợt lúc vịt 20 – 30 ngày tuổi và 4 – 5 tháng tuổi cho vịt đẻ.
Căn bệnh phó thương hàn
Triệu chứng: vịt con 3 – 15 ngày tuổi thường bị nhiều ở thể cấp tính; vịt lớn 45 ngày tuổi trở lên thường bị thể mạn tính. Vịt ốm, tiêu chảy, phân loãng, có bọt khí, lông đít dính, ít đi lại, chúng tách đàn tụ tập thành nhóm tìm chỗ ấm. Vịt khát nước, bỏ ăn. Bệnh có chứng lên cơn, run rẩy 2 chân, co giật, kéo dài 3 – 4 ngày thì chết đến 70%.
Phòng, chữa bệnh:
- Làm tốt công tác vệ sinh, nhất là ổ đẻ. Trộn thuốc furazolidon liều phòng cho vịt đến 2 tuần tuổi 100 g/tấn thức ăn, sau 2 tuần 50 g/tấn thức ăn; liều chữa 150 g/tấn chữa cho từng con thì 50 mg/con.
Căn bệnh nhiễm khuẩn E.COLI
Triệu chứng: vịt trên 3 ngày tuổi bị bệnh có triệu chứng lông xù, rụt cổ, mắt lim dim như buồn ngủ và tiêu chảy phân màu trắng rồi chết. Nhiều con ốm bị thần kinh co giật, ngoẹo cổ. Vịt đẻ giảm, vỏ trứng có máu, chết rải rác.
Phòng, chữa bệnh:
- Vệ sinh: Ðề phòng tốt các bệnh cầu trùng, ký sinh trùng, viêm đường hô hấp mãn tính.
- Trộn kháng sinh liều vào thức ăn: neotesol 100 – 200 mg/kg thể trọng; Tetracyclin 50 – 60 mg/kg thể trọng…
- Tiêm phòng vaccine Neotyphomix liều lượng 1 cc/3 con.
Căn bệnh dịch tả vịt
Triệu trứng: thường xảy ra ở vịt từ 15 ngày tuổi trở lên. Và 1- 5 ngày sau khi phát bện thì gia cầm bắt đầu chết. Vịt chết đột ngột cả những con đang béo, vịt đẻ giảm 25- 40%.
Vịt ốm bỏ ăn, tiêu chảy phân loãng màu trắng xanh, thối khắm, lông xù, mắt nửa nhắm, nửa mở, nước mũi chảy,cánh sã, ít vận động, sốt có 43- 43,50; liên tục trong 2 ngày, nhiều con đứng 1 chân, tỉ lệ chết 5- 100%.
Phòng chữa bệnh: Bệnh không có thuốc điều trị. Khi dịch tả xuất hiện phải bao vây nơi có dịch, loại bỏ vịt ốm, xử lý diệt virut bằng nhiệt. Không tiêm vacxin phòng khi vịt đang bị dịch.
Liều vacxin cho vịt khỏe lúc này = 1,5 lần,có thể gấp 2.