Nấm phổi là một bệnh truyền nhiễm xảy ra ở gia cầm và các loài chim. Biểu hiện đặc trưng của bệnh là hình thành các khối u nấm màu xám vàng ở phổi, hình thành các túi khí, từ đó gây rối loạn hô hấp và chết ở vật nuôi với tỷ lệ cao. Khí hậu nóng ẩm thuận lợi cho các loại nấm phát triển. Trong chăn nuôi gia cầm cần chú trọng công tác phòng bệnh, phát hiện sớm và điều trị kịp thời các bệnh nấm phổi.
Dưới đây là những thông tin chi tiết về bệnh nấm phổi trên gia cầm.
Mục Lục
Nguyên nhân gây bệnh
Chủ yếu do nấm Aspergillus Fumigatus, Mucoraceae gây bệnh cho gia cầm và các loài chim. Trong đó vịt, ngan và ngỗng mẫn cảm nhất.
Triệu chứng bệnh
Bệnh thường xảy ra quá cấp tính hoặc cấp tính đối với gia cầm con. Gia cầm 5 ngày tuổi đã có thể phát bệnh do hít bào tử nấm từ máy ấp, máy nở. Thông thường bệnh xảy ra ở 2-4 tuần tuổi, tỷ lệ chết có thể đến 80%.
Lúc đầu, gia cầm chết đột ngột, thể trạng bình thường. Sau đó một số có biểu hiện như kém ăn, thở khó, nhịp thở tăng, khi bắt gia cầm lên thấy rõ tiếng thở lách tách từ phổi.
Gia cầm khô chân, khô mỏ, tiêu chảy, một số con có triệu chứng co giật (do độc tố nấm ảnh hưởng đến thần kinh); gia cầm gầy dần và chết.
Cơ chế sinh bệnh
Bào tử nấm xâm nhập vào niêm mạc hô hấp hoặc tiêu hóa. Sau đó theo máu đến địa điểm ký sinh và nảy mầm tạo thành sợi nấm. Tạo những u nấm to nhỏ màu trắng xám, hay màu vàng ở phổi hoặc thành các túi khí hoặc một số cơ quan khác.
Trong quá trình sinh sản thì các tế bào nấm sẽ sản xuất ra các sản phẩm trao đổi chất, đó là các men phân giải protein, nó phá hoại mô bào và đó cũng là ngoại độc tố gây nhiễm độc huyết, làm con vật xuất hiện triệu chứng trúng độc toàn thân và chết.
Bệnh tích của bệnh nấm phổi
Bệnh tích chủ yếu trên phổi: Các hạt nấm màu trắng xám hoặc vàng trên phổi; hạt nấm có thể như hạt gạo, rắn; nếu bệnh nặng, cắt phổi thấy hạt nấm lan hết các phế nang, phế quản làm phổi đặc, chắc, khi thả xuống nước, phổi lơ lửng hoặc chìm.
Một số trường hợp, nấm lan sang màng phổi, túi khí, kế phát vi khuẩn gây viêm.
Cách phòng bệnh hiệu quả
Thường xuyên vệ sinh, định kỳ khử trùng môi trường khu ấp, nở, chuồng nuôi, các dụng cụ, thiết bị chăn nuôi, đặc biệt mùa mưa ẩm, không để nấm mốc phát triển.
Sử dụng chất độn chuồng mới, sạch, không nấm mốc, bụi bẩn; được phơi khô, phun hoặc xông khử trùng.
Chăm sóc nuôi dưỡng tốt, gia cầm khỏe mạnh sẽ hạn chế mắc bệnh.
Cách trị bệnh
Tìm và cắt đứt nguồn bệnh, nếu nấm trong chất độn chuồng thì phải thay ngay chất độn chuồng mới, khô, sạch, không nấm mốc.
Loại những con gia cầm mắc bệnh nặng vì điều trị không hiệu quả.
Chọn riêng những con có biểu hiện khó thở ra 1 ô để điều trị tích cực và chăm sóc riêng sẽ tốt hơn.
Dùng 1 trong các loại thuốc sau để điều trị cho gia cầm mắc bệnh: Nistatin, Mycostatin, nếu thuốc thú y thì dùng liều theo hướng dẫn của nhà sản xuất, nếu thuốc Nistatin của nhân y, loại 500.000 UI/viên, dùng 1 viên/2-3 kg khối lượng gia cầm, dùng 5-7 ngày liên tục tùy mức độ của bệnh (nên cân gia cầm để tính liều lượng thuốc cho chính xác).
Kết hợp bổ sung vitamin, thuốc trợ sức, trợ lực cho gia cầm.
>>> Xem thêm những thông tin về nông nghiệp khác tại đây.